CÁC YẾU TỐ CÓ HẠI TRONG CƠ SỞ Y TẾ
VÀ BIỆN PHÁP DỰ PHÒNG
Yếu tố có hại là yếu tố gây bệnh tật, làm suy giảm sức khỏe con người trong quá trình lao động.
Là một ngành lao động đặc thù, thực hiện nhiệm vụ đặc biệt là chăm sóc và điều trị cho người bệnh nên môi trường làm việc của nhân viên y tế (NVYT) tồn tại rất nhiều yếu tố có hại có thể gây bệnh và làm suy giảm sức khoẻ. Vì vậy việc nhận biết các yếu tố nguy cơ, kịp thời đưa ra các biện pháp phòng ngừa để bảo vệ sức khoẻ cho NVYT, đảm bảo chất lượng trong quá trình chăm sóc sức khoẻ người bệnh là vô cùng cần thiết.
Cứu chữa, giành giật sự sống cho bệnh nhân F0 - Báo Tiền phong
Theo ghi nhận của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hàng năm có khoảng 3 triệu NVYT bị các chấn thương do vật sắc nhọn, dẫn đến 2 triệu bị nhiễm HBV và 1 triệu bị HCV. Tại Việt Nam: Nghiên cứu ở NVYT các bệnh viện ở Quảng Bình năm 2012 cho thấy tỷ lệ nhiễm HBV là 13,9% (Đ.Q.Tiệp, T.M.Hậu, 2013); BV Nhi TW 3.0%, BV Việt Đức 9.1%, BV Da Liễu TW 6.3% (N.M. Hoàng & CS., 2022); Tỷ lệ nhiễm HCV: 13,1% (Miền Bắc, 1999); 2,14% (Cần Thơ, 2015-2016). Ngoài ra còn rất nhiều những con số được ghi nhận về bệnh và các rủi ro nghề nghiệp của nhân viên y tế: 2015- 19 y, bác sĩ bệnh viện phụ sản Hà Nội bị phơi nhiễm HIV khi cấp cứu sản phụ bị nhiễm HIV…Gần đây nhất khi đối mặt với dịch Covid -19, tại Việt Nam ghi nhận 7.195 NVYT bị nhiễm và có 4 người tử vong (Số liệu Cục Quản lý Môi trường y tế); Thống kê của Cục Quản lý khám chữa bệnh từ năm 2010 đến hết 2017, cả nước ghi nhận có ít nhất 22 vụ việc bác sĩ bị bệnh nhân và người nhà bệnh nhân hành hung: tấn công các bác sĩ (chiếm khoảng 70%) và điều dưỡng (khoảng 15%) và có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây. Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng việc trực đêm gây mệt mỏi và rối loạn giấc ngủ, bệnh tim mạch, khó thực hiện được công việc tốt và tăng nguy cơ xảy ra tai nạn, đây là vấn đề nghiêm trọng vì đối tượng sản xuất của NVYT là sức khoẻ, là tính mạng của con người.
Các yếu tố có hại chính luôn tồn tại trong môi trường làm việc tại các cơ sở y tế:
- Các yếu tố sinh học: Máu, dịch cơ thế, vi khuẩn, virút gây bệnh…
- Các yếu tố vật lý: Vi khí hậu, tiếng ồn, rung, bức xạ ion hoá, điện từ trường…
- Các yếu tố hoá học: Các hoá chất, thuốc…
- Bụi.
- Các yếu tố tâm sinh lý lao động và ecgônômi:
▪ Yếu tố tổ chức lao động: làm việc ca kíp, ban đêm.
▪ Yếu tố ecgônômi: tư thế làm việc bất hợp lý, nâng nhấc bệnh nhân…
▪ Yếu tố tâm lý xã hội, stress nghề nghiệp. - Tiếp xúc với các chất thải y tế.
Để phòng ngừa ảnh hưởng của các yếu tố có hại trong môi trường làm việc đến sức khoẻ của người lao động. Pháp luật Việt Nam đã ban hành các quy định thực hiện công tác quản lý bắt buộc người sử dụng lao động phải triển khai các nội dung:
- Ban hành và tuân thủ các quy định an toàn.
- Trang bị đúng, đầy đủ và tuân thủ việc sử dụng bảo vệ cá nhân.
- Vệ sinh nơi làm việc.
- Quan trắc môi trường lao động định kì và thực hiện khắc phục các yếu tố vượt giới hạn cho phép theo các khuyến cáo.
- Tăng cường dinh dưỡng và đảm bảo quy định của nhà nước về chế độ bồi dưỡng độc hại bằng hiện vật.
- Khám sức khỏe trước khi bố trí việc làm, khám sức khỏe định kỳ, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp và khám định kỳ bệnh nghề nghiệp.
- Bảo đảm đáp ứng yêu cầu về công trình vệ sinh, phúc lợi tại nơi làm việc.
- Tổ chức lực lượng sơ cứu, cấp cứu tai nạn lao động tại nơi làm việc và bảo đảm trang thiết bị sơ cứu, cấp cứu.
- Tổ chức lao động hợp lí.
- Truyền thông và huấn luyện về an toàn vệ sinh lao động.
Với ngành Y tế, với các yếu tố có hại đặc trưng kể trên người sử dụng lao động, người lao động cần thiết triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa để bảo vệ sức khoẻ cho người lao động –NVYT cụ thể như sau:
- Với các yếu tố sinh học: Cắt đứt đường xâm nhập bằng cách sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân (khẩu trang, quần áo bảo hộ, kính, găng tay…), vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường làm việc…
- Với yếu tố bức xạ: Thiết kế nơi làm việc bảo đảm an toàn bức xạ, đo kiểm tra an toàn bức xạ định kì, tuân thủ các quy định an toàn về bức xạ, sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân, thiết bị đo liều cá nhân…
- Với yếu tố điện từ trường: Sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân, đo kiểm tra an toàn điện từ trường, tuân thủ các quy định an toàn vận hành…
- Với vi khí hậu nóng: Cách ly nguồn nhiệt, sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân, cung cấp đầy đủ nước uống mát, nơi làm việc thông thoáng…
- Với tiếng ồn: Đo các định mức ồn, sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân, thường xuyên bảo trì bảo dưỡng thiết bị, trang bị các biển báo giữ trật tự…
- Với yếu tố rung chuyển: Phương tiện bảo vệ cá nhân, trang bị hệ thống giảm rung xóc..
- Với yếu tố hoá học: Nắm kỹ MSDS (bảng dữ liệu an toàn) của từng loại, đường xâm nhập để phòng ngừa, phương tiện bảo vệ cá nhân…
- Với yếu tố bụi: Vệ sinh khử trùng theo quy định, phương tiện bảo vệ cá nhân…
- Với chế độ làm việc bất lợi (tư thế lao động, thời gian làm việc): Trang bị thiết bị bổ trợ khi nâng nhấc, tổ chức đổi ca hợp lý, đảm bảo các NVYT được ngủ đủ, chế độ dinh dưỡng đầy đủ, hợp lí…
- Đặc biệt với vấn nạn bạo hành và quấy rối cần có những biện pháp phòng ngừa: Lắp đặt hệ thống báo động, bố trí lực lượng an ninh để bảo vệ NVYT; Tổ chức đánh giá nguy cơ về bạo hành, kỳ thị, phân biệt đối xử tại nơi làm việc; Bố trí lối thoát hiểm…
- Với yếu tố tâm lý khi thường xuyên phải làm việc với những bệnh nhân nặng (ung thư, bệnh nhân tử vong): Thường xuyên trao đổi ý kiến giữa lãnh đạo và nhân viên về khó khăn, thuận lợi, giải quyết thắc mắc; Giúp đỡ NVYT có vấn đề nghề nghiệp khó khăn như phục vụ bệnh nhân nặng, ung thư, bệnh mạn tính và tử vong; Ngăn chặn hiện tượng bạo lực từ phía người nhà bệnh nhân và bệnh nhân; Phát hiện sớm các biểu hiện của stress và có biện pháp giải toả, thư giãn…
- Với vấn đề rác thải y tế: Tuân thủ quy định an toàn về xử lý và quản lý chất thải…
- Cn CKI Phạm Thị Quỳnh (Khoa SKMT-YTTH-BNN - CDC Lâm Đồng)